Thứ Sáu, 14 tháng 11, 2008

Tiền Tổ và Hậu Tổ Cải lương




Tổ Cải Lương



Ông Tổ Cải Lương tên thật là Tống Hữu Định, bút hiệu Tịnh Trai, người ta còn gọi là Thầy Phó Mười Hai - gọi Thầy Phó vì ông từng làm Phó Tổng đất Vãng (sau đổi thành tỉnh Vĩnh Long) và gọi Mười Hai là theo hạng thứ trong gia đình. Ông sanh năm 1896 tại làng Long Châu, Vĩnh Long và mất năm 1932.

Ông là một danh sĩ tài hoa, vốn dòng dõi một công thần nhà Nguyễn - ngài Tống Phước Hiệp, thần hoàng bốn tỉnh - người có công trùng tu và tân tạo Văn Thánh miếu mà cũng là người nâng đỡ chu toàn nền cổ nhạc Long Hồ. Nhưng ông cũng là người ăn chơi nổi tiếng, hào hoa đứng đầu tỉnh Vĩnh Long vào những năm 1915-1920. Lúc sanh tiền ông hay tổ chức đờn ca tiệc tùng, đá gà nòi, bài bạc, đờn hát, ngâm thơ đủ thứ. Đệ nhất thế chiến 1914-1918, ông tổ chức hát dạo quyên tiền giúp quốc trái nhưng chưa bao giờ lên hát trên Sài Gòn. Họa chăng ông là người ham dạo chơi đó đây, nên ông từng ghé Mỹ Tho ngủ đêm tại đây để chờ sáng đáp xe lửa lên Sài Gòn, nhân dịp đó có lẽ ông đã từng xem hát bóng có đờn ca tài tử tại Mỹ Tho, cũng như ông từng lên ngồi uống rượu ở nhà hàng P.T. (góc Lê Thánh Tôn - Thủ Khoa Huân) và tại nhà hàng Lương Hữu, khách sạn ông Bảy Phương (đường Nguyễn Thiệp), ông thấy giàn đờn tài tử, ông chớp để bụng mang về nhà bày đờn ca ngồi trên ván ngựa v.v. Tuồng Cải Lương được diễn lần thứ nhất tại nhà Thầy Phó Mười Hai (Vũng Liêm) là ngày 15-11-1918, kế đó diễn nơi Sa Đéc và Vũng Liêm. Lúc bấy giờ, nói đến tên ông Tống Hữu Định, trong giới âm nhạc tài tử ai đều cũng biết. Ông là người có sáng kiến khai sinh ra điệu ca bộ, ông tổ chức nghệ thuật sân khấu Cải Lương. Khoảng đầu năm 1916, trong một buổi hòa tấu nhạc tại nhà ông, bài ca Tứ Đại Oán "Bùi Kiệm Thi Rớt Trở Về" được trình diễn bằng hình thức "ca ra bộ", vừa ca vừa ra bộ. Ba người thủ vai: Bùi Ông, Bùi Kiệm, Kiều Nguyệt Nga (Cô Ba Định thủ vai Nguyệt Nga, ông giáo Du trong vai Bùi Ông và ông giáo Diệp Minh Ký trong vai Bùi Kiệm). Ông Tống Hữu Định nổi tiếng là người hào hoa phong nhã hiếu khách, say mê nghệ thuật đờn ca, hàng tuần vào ngày thứ bảy đều có tổ chức hòa nhạc, tiệc tùng tại nhà ông với đôi ba người tài tử nghệ sĩ. Phong trào âm nhạc tài tử nhờ đó mà phát triển mạnh mẽ ở miền Tây cách đây 75 năm. Ông vừa là người có tâm hồn nghệ sĩ vừa là một nhà thơ, đã đứng ra vận động thành lập Hội Văn Thánh, quyên tiền trùng tu Văn Thánh miếu Vĩnh Long.
lekt - tcgd (Theo Hậu Trường SKCL của Trần Trung Quân)


Hậu Tổ Cải Lương

Soạn giả Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền, Hậu Tổ Cải Lương


Ngày 11 và ngày 12 tháng 8 âm lịch hàng năm, năm nay nhằm ngày thứ sáu 21 và thứ bảy 22 tháng 9 là ngày giổ Tổ Hát Bội và Cải Lương. Các nghệ sĩ hát bội và cải lương ở trong nước hoặc ở hải ngoại đều có tổ chức lễ giổ Tổ Nghiệp, hoặc tập trung từng đoàn hát, ở nhà truyền thống nghệ sĩ hoặc riêng từng cá nhân tại nhà của mình nếu không có điều kiện tập trung
Nhân dịp nầy, Nguyễn Phương muốn nhắc lại ý kiến của cụ Vương Hồng Sển nói về những vị hậu tổ cải lương. Tôi nghĩ là nhân ngày giổ Tổ, nghệ sĩ chúng mình cũng cần biết qua công đức của các vị Hậu Tổ đã đóng góp trong việc xây dựng nền nghệ thuật sân khấu độc đáo của dân tộc.Theo ông Vương Hồng Sển, nhà khảo cứu về sách cổ, đồ cổ, Cựu Giám đốc Bảo Tàng Viện Saigon và cũng là một học giả có nhiều bài viết về nghệ thuật hát bội và cải lương thì ông Nhạc Khị, người Bạc Liêu, nhạc sư, thân phụ của nhạc sư Ba Chột và cha vợ của nhạc sư Trịnh Thiên Tư đáng được tôn vinh là Hậu Tổ cải lương.Về các soạn giả, những người đã khai sanh ra các lối diễn ca trên sân khấu và đào tạo nghệ sĩ, nhà học giả Vương Hồng Sển có kể đến tên các ông Mạnh Tự Trương Duy Toản, người sáng tác kịch bản đầu tiên cho gánh hát của ông André Thận và ông Châu Văn Tú, những gánh hát cải lương đầu tiên ở miền Nam (1918).Sau đó ông Vương Hồng Sển kể đến các ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền, soạn giả của gánh hát Tập Ích Ban (1921); các ông soạn giả nguyên là thầy giáo của trường Tiểu học ở Sóc Trăng : Giáo Quyển, Giáo Chức và ông Tư Quốc soạn giả của gánh hát Tân Phước Nam của ông thầy thuốc Minh Sóc Trăng (1921 – 1922); ông Mười Giảng Nguyễn Công Mạnh, ông Lâm Hoài Nghĩa, Nguyễn Quốc Biểu, ông Phạm Công Bình, Châu Hồng Đào, Trần Quang Hiển, Lê Quang Hộ, Ngô Văn Nghị, Đoàn Quan Tấn (sinh viên trường Cao Đẳng Hà Nội, gốc miền Nam), ông Hồ Văn Trung (tức nhà văn Hồ Biểu Chánh), ông Lê Quang Liêm (đốc phủ Bảy), Nguyễn Chánh Sắt (nhà dịch thuật truyện Tàu rất nổi tiếng), ông Trần Chánh Chiếu…Các ông kể trên đều là những soạn giả đã viết những tuồng cải lương trong các năm từ 1918 đến 1924. Đó là những nhà trí thức học giả, có ông là giáo sư trường Chasseloup Laubat Saigon, có ông làm tới chức Đốc Phủ Sứ, có ông vừa là công chức của Ty Soái Phủ vừa là nhà văn hữu danh.Các ông soạn những tuồng lịch sử Việt Nam (Gia Long Tầu Quốc, Pháp Việt Nhứt Gia, Giọt Máu Chung Tình tức Võ Đông Sơ - Bạch Thu Hà…), tuồng xã hội (Tham Phú Phụ Bần, Tối Độc Phụ Nhơn Tâm…) tuồng Việt Nam xưa theo các tích truyện Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, Thúy Kiều – Kim Trọng, Lâm Sanh Xuân Nương, Lưu Bình Dương Lễ… tuồng theo tích truyện Tàu : Phụng Nghi Đình, Châu Mãi Thần Ly Thê, Thái Sư Văn Trọng, Mổ Tim Tỷ Can, Thôi Tử Thí Tề Quân…Cụ Vương Hồng Sển nhắc đến người soạn giả đầu tiên của cải lương : ông Mạnh Tự Trương Duy Toản. Sau đó mới tới ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền, nhưng theo lời của cô Phùng Há, nghệ sĩ kiêm soạn giả Năm Châu, soạn giả Lê Hoài Nở thì ông thầy tuồng có công đào tạo nhiều nghệ sĩ tài danh tiền phong như Năm Châu, Bảy Nhiêu, Tư Thới, Phùng Há, Ngọc Hải, Sáu Ngọc Sương, Ngọc Trâm, Kim Cúc… là ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền.Anh Năm Châu, anh Bảy Nhiêu, cô Phùng Há khi nhắc tới ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền thường tỏ lòng tôn kính và xem như là cha nuôi của mình. Và cô Phùng Há thường nói : « Nếu nói đến Hậu Tổ Cải Lương thì bên nhạc đúng là ông Nhạc Khị, bên cải lương là ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền.» Trong giới nghệ sĩ sân khấu cải lương có tập tục thờ Tổ nghiệp : không ai biết đích xác Ông Tổ ngành hát bội và cải lương là ông nào. Tổ nghiệp của nghề hát là danh xưng để gọi chung các bậc tiền bối đã dày công sáng lập nên sự nghiệp có liên quan đến nghệ thuật sân khấu : Tổ Sư, Thánh Sư, Tiên Sư, Tam Giáo đạo sư, Thập nhị công nghệ, Lão Lang đại thần, Tiền Hiền, Hậu Hiền…tức là những bậc nhân tài xuất chúng, những bậc thầy các ngành nhạc, mộc, dệt, múa, rèn, thuốc, hát ca, kể cả những đồng nghiệp quá cố.Theo quan niệm đó thì các ông khởi đầu cho nghề soạn tuồng như ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền, ông Mạnh Tự Trương Duy Toản, Nhạc Sư Hai Khị đều được tôn vinh là Hậu Tổ cải lương, đó là để tưởng nhớ và ghi ơn bậc tiền bối đã khai sáng nghệ thuật cải lương.Ông Nguyễn Trọng Quyền bút danh Mộc Quán, sinh năm Đinh Sửu (1876), tại làng Thạnh Hòa, xã Trung Nhứt, quận Thốt Nốt, tỉnh Long Xuyên (nay thuộc tỉnh Cần Thơ), con của ông Nguyễn Văn Tường và bà Trương Thị Thạnh.Lúc nhỏ, ông học hết chương trình Tiểu học, rồi ở nhà học chữ Nho với cha và tự học thêm Pháp văn. Ông làm thư ký cho hãng rượu nếp hiệu Phước Hiệp do ông Vương Thiệu (Năm Tiệm) làm chủ. Ông Quyền rất giỏi tiếng Tiều. Ông Vương Thiệu nguyên là một nghệ sĩ đoàn hát Tiều giải nghệ để kinh doanh nghề nấu rượu nên trong những cuộc tiệc nội bộ của hãng rượu Phước HIệp, ông Vương Thiệu rước đoàn hát Tiều về hát cho công nhân xem. Ông Nguyễn Trọng Quyền nhân các dịp đó, làm quen với các kép hát Tiều, học đờn cò và học hát.Năm 1903, lúc ông được 27 tuổi, ông sáng tác thơ tuồng để dạy con cháu cách cư xử ở đời như thơ Thoại Bạch Viên (còn gọi là thơ Chệt Xuội), Trùng Ma Phụ Giám và Xử Hạnh Ca.Năm 1916, ông Vương Có, con của chủ hãng rượu Phước Hiệp, nhân thấy nhiều chủ bầu các gánh hát ở Tiền Giang và Hậu Giang làm giàu mau lẹ nhờ gánh hát rất đông khách nên ông xin cha ông giúp vốn lập ra đoàn cải lương Tập Ích Ban. Ông Nguyễn Trọng Quyền, thơ ký của hãng rượu Phước Hiệp được mời làm thầy tuồng.Gánh hát Tập Ích Ban (1921) được tổ chức rập khuôn theo một gánh hát Tiều, soạn giả Nguyễn Trọng Quyền lấy bút danh là Mộc Quán. Các nam nữ diễn viên đều được đặt cho nghệ danh theo tên người Hoa như nghệ sĩ Bảy Nhiêu thành tên Lâm Sinh, cô Sáu Trâm thành tên Ngọc Xoa, nghệ sĩ Tư Thới thành tên Dương Hòa, Hai Hiến thành tên Kiều Mị, Hai Hí thành tên Song Hỷ…Suốt 7 năm làm thầy tuồng gánh hát Tập Ích Ban, ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền đã viết 27 tuồng dựa theo cốt truyện Tàu, dã sử Việt Nam và xã hội mà một số lớn các di cảo còn được nghệ sĩ Phùng Há gìn giữ như tuồng Châu Trần Tiết Nghĩa, Tây Sương Ký, Thố Nhận Oan Ương và tuồng Bội Phu Quả Báo, sáng tác phẩm của ông Phạm Công Bình năm 1923, được ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền nhuận sắc năm 1924, thêm bài ca Dạ Cổ Hoài Lang cho nghệ sĩ Phùng Há hát cho gánh hát Huỳnh Kỳ.Nhờ có học hát Tiều và nghiên cứu lối hát Hí Khúc Trung Quốc, ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền đứng ra tập các tuồng Tàu của ông sáng tác, ông chỉ dạy cho các nghệ sĩ những lối múa theo tuồng Tàu, cách dâng rượu, múa thương, múa đao đến các nghi thức diễn các lớp vào triều, tư thế của tiểu thư, mệnh phụ hay các văn quan võ tướng. Lớp lang, điệu hát, điệu múa ăn khớp với lời ca, bài hát do ông soạn khiến cho các nghệ sĩ lãnh hội được một lối hát mới, thoát khỏi những gò bó khi còn trong thời kỳ Ca Ra Bộ.Năm 1923, ông Nguyễn Trọng Quyền được ông Bầu Lê Phước Georges và nữ nghệ sĩ Phùng Há mời về làm thầy tuồng cho gánhn hát Huỳnh Kỳ. Ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền đã viết 12 tuồng cho gánh hát Huỳnh Kỳ.Năm 1929, ông được mời về làm thầy tuồng cho gánhn hát Hữu Thành của ông bầu Nguyễn Bá Phương ở Thốt Nốt. Ông đã viết 5 tuồng cho gánh hát Hữu Thành.Năm 1935, ông Nguyễn Bữu ở Trà Vinh và cô Phùng Há lập ra gánh hát Phụng Hảo 3, mời ông Nguyễn Trọng Quyền làm thầy tuồng. Ông Quyền đã viết 7 tuồng cho gánh hát Phụng Hảo 3 mà hai vở tuồng San Hậu và Phụng Nghi Đình đến nay vẫn được nhiều đoàn hát khác đem ra sử dụng.Năm 1937, gánh hát Hữu Thành tái sinh và gánh hát Kỳ Quan của ông Năm Hý ở Thốt Nốt thành lập. Hai gánh hát nầy mời ông Nguyễn Trọng Quyền làm thầy tuồng chung cho hai gánh hát. Thời gian này ông Quyền sáng tác 17 tuồng.Năm 1939, ông Quyền làm thầy tuồng cho gánh hát Ngự Bình của Bầu Tư Thới, ông đã sáng tác 8 vở tuồng Tàu và dã sử cho đoàn hát Ngự Bình.Năm 1952, ông Châu Văn Sáu tức Bầu Nhơn cùng với cô Phùng Há lập đoàn cải lương Phụng Hảo 4. Ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền viết một vở tuồng, lấy nước Nhựt làm bối cảnh cho câu chuyện, tựa tuồng là Luống Cày Rướm Máu. Tuồng nầy được hát một tuần lễ tại rạp Nguyễn Văn Hảo, kế đó phải tạm ngưng vì ông bầu Châu Văn Sáu và cô Phùng Há được tin là ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền bị đứt mạch máu não, đưa vào nhà thương Châu Đốc và trút hơi thở cuối cùng vào ngày 21 tháng 9 năm Qúy Tỵ (1953).Cô Phùng Há, ông bầu Châu Văn Sáu, nghệ sĩ Năm Châu, Bảy Nhiêu, Năm Phỉ, Ba Vân, Từ Anh, Kim Cúc, Kim Lan về Thốt Nốt dự lễ an táng ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền tại xã Trung Nhứt, huyện Thốt Nốt. Cô Phùng Há đứng ra xây một ngôi mộ cho ông tại ấp Phụng Thạnh 2, xã Trung Nhứt vì cô Phùng Há vừa là đệ tử, vừa là dưỡng nữ của ông Mộc Quán.Ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền làm thầy tuồng được 50 năm, sáng tác được 85 vở tuồng cải lương nổi danh. Ngoài ra ông còn là một nhà thơ và viết nhiều thể loại với các bút danh Mộc Quán, Thốc Sơn, Hưng Hoành, Cái Sơn Bô Lão.Ngoài 85 tuồng cải lương, ông còn sáng tác 7 tập thơ tuồng, 12 tập sách dạy con cháu cách xử sự ở đời và trên 100 bài thơ các loại. Ngoài tác phẩm Trùng Ma Phụ Giám, ông còn viết Phu Thê Ngôn Luận và 113 câu hát đối đáp. Số sáng tác phẩm của ông vừa được kể ra, hiện nay đã được tái bản và lưu giữ nơi các cơ quan văn hóa của tỉnh Cần Thơ. Các tuồng có bút tích của ông Mộc Quán hiện được cô Phùng Há cất giữ.Các nghệ sĩ cải lương hậu bối ngày nay đều tôn vinh cụ Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền là một vị Hậu Tổ của Cải Lương.
tancogiaoduyen (Theo SG Nguyễn Phương - ĐACTD

Không có nhận xét nào: